Chùa Phù Dung vốn là một ngôi chùa cổ có kiến trúc đẹp đẽ, được cất ở chân núi Phù Dung xưa. Vì núi có tên Phù Dung nên chùa cất ở đấy cũng gọi theo tên ngọn núi, chứ Phù Dung chẳng phải tên gọi của ái cơ ái thiếp nào của Mạc Thiên Tích cả. Sau này do loạn lạc giặc Xiêm nên chùa đã bị phá hủy.
chùa Phù Dung được cất lại ở núi Bình San, tức nền cũ của Chiêu Anh Các, nhưng không được tiếp tục duy trì tên cũ vì kỵ húy “tên cúng cơm” của vua Thiệu Trị. Thời đó, từ Bắc chí Nam, các địa danh có chữ Dung đều phải đổi. Chẳng hạn như huyện Phù Dung ở ngoài Bắc đổi lại là huyện Phù Cừ. Còn ở Hà Tiên, núi Phù Dung cũng đổi lại là núi Phù Cừ. Do đó, sau khi cất lại chùa, ông Doãn Uẩn quyết định đổi tên là chùa Phù Anh tức Phù Dung và Chiêu Anh các ghép lại. Thời đó lũy chung quanh núi cũng gọi là lũy Phù Anh.
chùa Phù Dung được cất lại ở núi Bình San, tức nền cũ của Chiêu Anh Các, nhưng không được tiếp tục duy trì tên cũ vì kỵ húy “tên cúng cơm” của vua Thiệu Trị. Thời đó, từ Bắc chí Nam, các địa danh có chữ Dung đều phải đổi. Chẳng hạn như huyện Phù Dung ở ngoài Bắc đổi lại là huyện Phù Cừ. Còn ở Hà Tiên, núi Phù Dung cũng đổi lại là núi Phù Cừ. Do đó, sau khi cất lại chùa, ông Doãn Uẩn quyết định đổi tên là chùa Phù Anh tức Phù Dung và Chiêu Anh các ghép lại. Thời đó lũy chung quanh núi cũng gọi là lũy Phù Anh.
Nguyên nhân lầm lẫn vị trí và tên gọi chùa Phù Dung, Phù Cừ là từ sách vở. Đời Minh Mạng có Gia Định thành thông chí, đời Thiệu Trị có Hoàn Vũ ký, đời Tự Đức có Đại Nam nhất thống chí. Khi thực hiện bộ sách Đại Nam nhất thống chí, trình lên vua Tự Đức xem thì vua bảo, sách còn sai nhiều chỗ, đem về làm thêm bản phụ biên để sửa. Nhưng trong lúc tập phụ biên đang làm thì Pháp tấn công Đà Nẵng rồi sau đó chiếm luôn Gia Định và Nam kỳ. Triều đình Tự Đức trong giai đoạn này, văn khố lộn xộn, nhiều tài liệu sách vở bị thất lạc. Bộ sách Đại Nam nhất thống chí được người đời sau tìm những gì còn sót chép lại, còn phần bổ biên không tìm thấy. Sau khi Tự Đức qua đời, đến thời vua Duy Tân, Đại Nam nhất thống chí được làm lại. Bấy giờ Nam kỳ đã không còn là thủy thổ của triều đình Huế, sách không nói đến lục tỉnh, nên không có Hà Tiên.
Còn giai nhân Phù Cừ hồng nhan tri kỷ của ông Mạc Thiên Tích vốn là sản phẩm truyền miệng trong dân gian, mà bắt nguồn là từ tiểu thuyết Nàng ái cơ trong cái chậu úp của Mộng Tuyết. Sau này ông già Nam bộ Sơn Nam đã sưu tầm và chép lại làm tư liệu khảo sát miền Tây Nam bộ. Câu chuyện càng lâm ly bi đát hơn khi được soạn giả Kiên Giang viết thành vở Áo cưới trước cổng chùa. Thời buổi loạn lạc thông tin ít ỏi, người chữ nghĩa không nhiều, lưu trữ không thông nên việc nhầm lẫn kể cũng không tránh khỏi. Từ đó nàng Phù Dung bước vào lịch sử. Người dân miền Tây chơn chất thật thà, giàu tình cảm, tuy về lịch sử không biết nhiều nhưng về tình cảm luôn tràn đầy, họ yêu mến và thương cảm cho số phận éo le của nhân vật Phù Cừ đồng thời căm ghét thói ghen tuông đố tài của bà vợ cả nên câu chuyện từ hư thành thực. Trong đời sống bình dân câu chuyện cả - lẽ thì phần ác luôn nghiêng về bà cả. Họ xây dựng ban thờ của người "ái cơ" đó trong Phù Dung Cổ tự cũng không có gì lạ. Và "bà Phù Dung" ấy đã trở thành một giai thoại liêu trai của đất Hà Tiên. Có lẽ không có bà, câu chuyện Phù Dung Cổ tự cũng chẳng còn màu sắc lãng mạn bi ai khiến người sau nhớ mãi. Nó chỉ còn là một ngôi chùa nhuốm phong sương thời cuộc, chứng kiến lớp lớp thăng trầm dâu bể của người và cảnh nơi địa đầu biên giới mà thôi.
Đương nhiên chuyện tiểu thuyết muốn nói gì thì nói, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Mạc Thiên Tích mở cõi, công lao của người vợ sát cánh cùng ông cũng không nhỏ. Dù sao gieo tiếng oan cho hiền phụ của người có công mở mang đất Hà Tiên cũng là điều không nên vậy.
Ai yêu mến con người và thủy thổ miền Tây Nam bộ, cũng nên biết qua lịch sử xứ này, không nên để sai càng sai, lầm càng lầm. Còn hình ảnh giai nhân "Phù Dung" tài hoa khổ mệnh mỗi người có thể lưu dấu riêng trong tâm khảm của mình, mà thêm yêu mảnh đất xinh đẹp hiền hòa Hà Tiên.
Đương nhiên chuyện tiểu thuyết muốn nói gì thì nói, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Mạc Thiên Tích mở cõi, công lao của người vợ sát cánh cùng ông cũng không nhỏ. Dù sao gieo tiếng oan cho hiền phụ của người có công mở mang đất Hà Tiên cũng là điều không nên vậy.
Ai yêu mến con người và thủy thổ miền Tây Nam bộ, cũng nên biết qua lịch sử xứ này, không nên để sai càng sai, lầm càng lầm. Còn hình ảnh giai nhân "Phù Dung" tài hoa khổ mệnh mỗi người có thể lưu dấu riêng trong tâm khảm của mình, mà thêm yêu mảnh đất xinh đẹp hiền hòa Hà Tiên.